---------------------------------------------------------

Chào mừng bạn đến với diễn đàn Công Nghệ Thông Tin CK08 Ca Mau Community College.
Hy vọng diễn đàn sẽ là nơi giao lưu học hỏi và chia sẽ niềm đam mê tri thức.
Chúc bạn một ngày an lành và vui vẻ và luôn thành công trong cuộc sống.
################################
---------------------------------------------------------

Chào mừng bạn đến với diễn đàn Công Nghệ Thông Tin CK08 Ca Mau Community College.
Hy vọng diễn đàn sẽ là nơi giao lưu học hỏi và chia sẽ niềm đam mê tri thức.
Chúc bạn một ngày an lành và vui vẻ và luôn thành công trong cuộc sống.
################################
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


 
Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesĐăng kýĐăng Nhập
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Latest topics
Top posters
Admin
Khúc Nam Ai Vote_lcapKhúc Nam Ai Voting_barKhúc Nam Ai Vote_rcap 
haivip.info
Khúc Nam Ai Vote_lcapKhúc Nam Ai Voting_barKhúc Nam Ai Vote_rcap 
truyenITPro
Khúc Nam Ai Vote_lcapKhúc Nam Ai Voting_barKhúc Nam Ai Vote_rcap 
nguyendil
Khúc Nam Ai Vote_lcapKhúc Nam Ai Voting_barKhúc Nam Ai Vote_rcap 
pccamau
Khúc Nam Ai Vote_lcapKhúc Nam Ai Voting_barKhúc Nam Ai Vote_rcap 
devil
Khúc Nam Ai Vote_lcapKhúc Nam Ai Voting_barKhúc Nam Ai Vote_rcap 
lptho42
Khúc Nam Ai Vote_lcapKhúc Nam Ai Voting_barKhúc Nam Ai Vote_rcap 
huynhanh90
Khúc Nam Ai Vote_lcapKhúc Nam Ai Voting_barKhúc Nam Ai Vote_rcap 
dosongnguyen
Khúc Nam Ai Vote_lcapKhúc Nam Ai Voting_barKhúc Nam Ai Vote_rcap 
ltvvbdn
Khúc Nam Ai Vote_lcapKhúc Nam Ai Voting_barKhúc Nam Ai Vote_rcap 
Top posting users this week
No user
Top posting users this month
No user
Liên Hệ Admin

 

 Khúc Nam Ai

Go down 
Tác giảThông điệp
haivip.info
Administrotor
Administrotor
haivip.info


Tổng số bài gửi : 258
Join date : 08/08/2010
Age : 33

Khúc Nam Ai Empty
Bài gửiTiêu đề: Khúc Nam Ai   Khúc Nam Ai Icon_minitimeSat Sep 18, 2010 7:57 pm

"Hỡi ôi, tình nghĩa phu thê dù có nặng, thiếp cũng nào dám đâu cản bước chân chàng. Chàng ra đi để trả nợ núi sông. Thiếp ở lại nuôi con chờ ngày chiến thắng.
Nhưng trên bước đường chông gai tên đạn, thiếp xin ai bảo trọng tấm thân… vàng..."
- Từng, tưng tưng tứng tưng tứng tưng từng...
Tôi lẩm nhẩm miệng hát theo tiếng đờn của bác Bảy Viễn ở đằng sau tấm màn màu xám. Vở tuồng quen thuộc đến buồn ngủ. Bác Bảy Viễn có thể vừa đờn vừa ngủ mà không sợ lộn nhịp. Ngoài sân khấu, ba tôi và mẹ tôi đang diễn tả vai trò hai vợ chồng trong giờ phút biệt ly. Nước mắt mẹ tôi chảy ra long lanh trong ánh sáng trắng loát của ngọn đèn măng sông sáng rỡ. Bên cạnh tôi, trên chiếc ghế tạm làm bằng hai cục gạch hầm đỏ ối, bác Tư Tình đang săm soi lại lần cuối bộ râu chổi xề trong vai Hung Nô. Đặt chiếc gương lớn đã bể mất một góc lên thành rương, bác Tư Tình trợn mắt dọa mấy đứa nhỏ đang vạch chiếu tò mò nhìn bác hóa trang. Mấy đứa con gái bỏ chạy như vịt. Mấy đứa con trai dạn hơn, cười toe với bác, chúng la:
- Tướng cướp tụi bây ơi.
Bác Tư Tình đứng dậy phủi đít vạch cánh gà nhìn ra sân khấu:
- Hết bài này tới tui phải hông?
Bác Bảy Viễn gật đầu, nhắc:
- Ờ, mà cha nhớ thay đồ đi cha nội. Hồi nãy đóng vai trung thần, bây giờ vai rợ Hung Nô phải đổi áo đi chớ.
Đoàn hát của ba má tôi chỉ có vỏn vẹn chừng đó người, chồng chất trên một chiếc xe lam cũ rích. Ba má tôi là đào kép rường cột của đoàn, vừa là sáng lập viên, vừa kiêm soạn giả của những vở tuồng mà đoàn trình diễn. Nói là soạn giả cũng quá đáng, bởi hầu hết những vở tuồng ấy đều lấy từ những vở tuồng đem in thành tập nhỏ lớn hơn bàn tay bán phổ biến cho dân chúng của các soạn giả cải lương nổi tiếng ở Sài Gòn. Ba tôi mua về bỏ bớt một vài ba vai, thu ngắn vở tuồng để đoàn hát nghèo của chúng tôi có thể diễn được cho các bà con ở vùng quê xem. Phải nói là đoàn hát Hưng Liên, tên ghép của ba tôi và má tôi, là đoàn hát nghèo nàn nhất nước, và nhất thế giới nữa. Gia tài của chúng tôi chỉ có chiếc xe lam cà rịch cà tang là đáng giá còn ngoài ra là mấy rương quần áo đồ tuồng cũ nát, mục rách. Không có phông cảnh, không cả đèn màu, chúng tôi trình diễn dưới ánh sáng trơ trẽn của cái đèn măng sông hoặc cây đèn dầu khơi ngọn. Mỗi một diễn viên, gọi là diễn viên cho oai đấy, có thể đóng hai ba vai cùng một lúc. Và ba tôi khéo léo xào xáo để người này có thì giờ trút bỏ lớp hóa trang cũ mà thay bằng lớp hóa trang trong một vai khác. Ít khi hai vai cùng một người đóng mà chạm mặt nhau. Như bác Tư Tình vừa đóng vai trung thần, vừa đóng vai rợ Hung Nô, vừa đóng vai người đàn ông ăn chơi trong thời buổi loạn lạc. Cũng bởi vì đóng nhiều vai quá nên đôi khi có nhiều chuyện buồn cười xảy ra, như vụ hát tuồng cách đây hai tháng. Bác Tư Tình sau khi đóng xong vai chàng thư sinh, vội vàng vào trong hóa trang kẻ mặt để đóng vai một vị quan võ. Khổ nỗi lúc vừa hóa trang xong, bác bị đau bụng cuống cuồng chạy ra đồng cách nơi hát cả trăm thước. Lúc trở vào vừa lúc phải ra tuồng. Bị hối thúc, bác quýnh cả lên chỉ kịp khoác vào người chiếc áo thụng, cột túm hai ống quần rồi tất tả bước ra cất giọng rổn rảng. Đến đoạn vị quan bị nhà vua áp chế, tức tối dùng gươm tự vẫn. Bác làm một cử chỉ giận dữ, kèm theo câu hát là cử động rút gươm ngạo nghễ cùng tiếng hét phẫn uất. Gươm vừa rút ra là khán giả cười lăn lộn, cười quên thôi, cười vỡ cả đình. Bác Tư Tình quên đeo gươm. Vật rút ra là chiếc quạt thư sinh mà bác giắt trong cạp quần của vai trò trước.
Tuy đoàn hát của chúng tôi lèm nhèm như vậy, nhưng dân chúng đến xem phần đông đều dễ dãi. Họ sẵn sàng bỏ qua những lỗi lầm kỹ thuật mà chúng tôi không làm thế nào để thực hiện nổi.
A, tôi quên kể đến vai trò của tôi trong đoàn hát. Mặc dù mới được mười tuổi đầu nhưng tôi rành hầu hết các bản ca. Công việc của tôi mỗi đêm là nấu một nồi cháo loãng để cả đoàn ăn khuya sau khi vãn hát. Sau đó, tôi ra ngồi ở cánh gà nhìn xuống đám khán giả lố nhố, vừa đàn ông, vừa đàn bà, vừa con nít. Con nít thì nói la om sòm, nhiều đứa khóc lóc inh tai át cả lời hát trên sân khấu. Người lớn, kẻ hút thuốc, kẻ ăn trầu, vừa ăn quà, vừa nghe hát. Trông cũng vui mắt và đỡ buồn ngủ đấy chứ. Thỉnh thoảng, ba tôi cũng cho tôi đóng những vai con trẻ. Tôi nắm tay mẹ tôi bước ra sân khấu nói một vài câu ngắn, đôi khi hát một vài câu theo điệu Lý con sáo. Nhưng chính cũng vì vậy mà tôi bất mãn lắm lắm. Tôi cá là tôi có thể hát được đủ loại bài ca cơ mà. Bác Bảy Viễn dạy tôi hát rập theo tiếng đờn của bác. Tôi đã ca được cả Vọng cổ, cả xàng xê. Ấy thế mà ba tôi cứ ngại tôi không hát được. Tôi có nũng nịu hoặc vờ dỗi trách hờn ba mẹ, thì hai người chỉ cười bảo tôi chờ vài năm nữa. Vài năm nữa, ngày tháng đối với tôi dài quá sức. Trong khi đó, ba tôi cứ bắt tôi phải học chữ mãi. Lạ lùng là học ca không thấy ớn, mà mau thuộc, trong khi học chữ thật chán như cơm nếp. Mỗi buổi sáng, trước khi tập tuồng, hay soạn tuồng, ba tôi bắt tôi mở cuốn tập dạy tôi làm tính, làm toán. Kể ra khi học tôi được thấy nhiều cái lạ. Nhất là trong quyển tập đọc. Tôi đọc thấy những thành phố lớn, nhà lầu hai ba chục tầng, xe hơi, xe gắn máy rộn rịp. Những lần ấy, học xong, xếp sách lại là tôi bắt đầu tra gạn cha tôi:
- Xe hơi có đẹp như xe chở rau của ông nào quen với ba đó không hở ba?
- Đẹp hơn nhiều chớ.
- Đẹp là đẹp làm sao ba?
- Đẹp lắm.
Tôi xoay sang câu khác:
- Sao ba mẹ không về chỗ nào có xe hơi, mình hát chắc được nhiều tiền lắm ba há !
Mẹ tôi ngồi vá mấy bộ đồ rách, lên tiếng bực bội:
- Về tỉnh có mà bưng chén đi ăn xin.
- Sao vậy mẹ?
Ba tôi lắc đầu:
- Thôi, đừng có hỏi tào lao, lộn xộn. Còn nhỏ, hỉ mũi chưa sạch mà bày đặt. Để ba đọc lại tuồng tối diễn cho bà con lấy tiền. Chạy đi kêu bác Bảy Viễn cho ba. Lại kiếm chỗ uống rượu rồi.
Mặc dù ấm ức nhưng tôi không dám cải lời, vội vã đứng dậy. Bác Bảy Viễn là ông vua uống rượu. Có rượu bác đờn hay. Không rượu bác như người mất hồn. Mà uống rượu nhiều quá thì bác không thể cầm đàn lên nổi. Ba tôi than phiền bác luôn. Có đồng nào bác đem mua rượu tất. Ba tôi có nói đến, bác lại bảo bác đâu cần ăn cơm. Bác uống rượu thế cơm. Tôi nghĩ chắc bao tử bác là một cái bình đựng rượu rỗng đáy. Được cái khi nào có tiền, nghĩa là đêm hát trước chúng tôi có đông khán giả, bác đi uống rượu rồi mua về cho tôi một chéo tay khô cá sặc thơm nức, nhai nhai béo đáo để. Ngón đờn của bác tôi nghe thì tuyệt lắm. Bởi khi bác đờn, đem so với bác Tư Tình thỉnh thoảng cũng đờn chơi vài bản, thì thấy tiếng đờn của bác Tư nó làm sao ấy. Lục cục lạc cạc thế nào ấy. Mẹ tôi bảo ngày xưa, bác cũng là một nhạc sĩ có ngón đờn có hạng lắm ở Sài Gòn, nhưng càng về già, bác càng sinh tật uống rượu dữ, bỏ bê công việc. Có đêm đang đánh đờn cho diễn viên hát, nửa chừng rượu vật bác nằm ngay đơ. Các đoàn hát thấy vậy chạy mặt hết. Bác đâm ra cùng quẫn, chán đời, ra bờ sông Sài Gòn tự tử. May gặp ba tôi khuyên giải và đưa bác về lập cái đoàn hát nhỏ lây lất với nhau. Nhưng từ khi tôi biết chuyện đến nay, bác có uống rượu say sưa lăn trời đổ đất thật đấy, nhưng chưa bao giờ tôi thấy bác bỏ dở nửa chừng lần nào. Có lẽ bác ý thức được trách nhiệm của mình chỉ có một mình đờn cho mọi người hát, một mình bác là một dàn đờn. Tay bác đờn, thì chân bác gõ nhịp. Nếu bác ngừng kể như xong đời.
- Hiệp, Hiệp, kéo màn, vãn hát mà. Kéo lẹ lên.
Tôi giật mình, hai bàn tay phản xạ chạy mau hơn ý nghĩ kéo vội bức màn. Một tràng vỗ tay rời rạc nổi lên. Tiếng chân người, tiếng gọi nhau ơi ới, tiếng la, tiếng khóc ồn ào.
- Chèn ơi, có buồn ngủ thì chui vô xe mà ngủ, chớ mầy cứ ngồi mà ngơ ngơ ngẩn ngẩn vậy.
- Tui ngồi tui suy nghĩ chớ bộ. Cái điệu này ngó bác Bảy nói tui thức khuya dở phải hông. Còn lâu à.
- Ừa, mầy thức khuya tài lắm, đêm nào mẹ mầy cũng na mầy tới chỗ ngủ muốn rã tay.
Tôi cãi lại:
- Hông biết ai na ai đó à. Bữa trước, cái bữa…
Bác Bảy xua tay:
- Thôi, thôi, tao chịu thua cái miệng của mầy rồi. Xí xọn.
- Cái gì vậy bác Bảy?
Ba mẹ tôi đã ra khỏi sân khấu, trên nét mặt của hai người, tôi đọc thấy những nếp nhăn mệt mỏi. Tôi chạy lại ôm lấy tay mẹ.
- Cho con ăn cháu mẹ nghe.
Mẹ tôi cười:
- Ủa, nhà bếp có quyền ăn trước mà.
Bác Tư Tình vãn tuồng trước, đang khệ nệ mang nồi cháo đến. Bác nghe thế vội nheo mắt nhìn tôi trêu:
- Nồi cháo hổm rày lưng ăn hổng đủ. Mầy ăn vụng hở Hiệp?
Tôi nóng mặt lên trong khi bác Bảy Viễn cười hăng hắc thích thú. Tôi dậm chân, nước mắt doanh tròng:
- Mẹ…
Mẹ tôi cả cười cúi xuống xoa đầu tôi. Người múc một bát cháo lớn, đưa tôi cái muỗng rồi nói:
- Công con nấu cháo ai mà không biết. Có ăn trước cũng được.
Tôi dùng dằng:
- Không mà, con đâu có ăn trước.
- Có tịch giật mình rồi.
Tôi chạy lại, nhảy bổ lên trên bác Tư Tình đấm vào lưng thùm thụp. Bác la lên:
- Trời ơi, nó giết tui, nó giết tui. Hỡi ơi, còn gì tấm thân già này nữa. Em Lan ui, ở lại, anh đi…
Bác nói lối một câu vọng cổ, tôi buồn cười quên cả giận.
Cả đoàn năm người kể cả tôi ngồi quây quần chung quanh nồi cháo loãng bốc khói trên chiếc chiếu rách trải trên nền đất nện.
- Sáng mai mình nghỉ buổi sáng cho khỏe. Trưa ăn cơm xong lên đường. Tôi hỏi chỗ rồi. Xã trên đi xe của mình mất có khoảng hai tiếng đồng hồ. Đi ghe gần hơn mất độ một tiếng. Kẹt cái xe, chớ miệt này đi ghe sướng nhứt.
Tôi ngẩng đầu lên ngạc nhiên, hỏi trong lúc miệng lúng búng đầy cháo:
- Mai đi rồi. Con thấy còn nhiều người coi hát lắm mà.
Bác Bảy Viễn cười lạt:
- Ai đâu mà nhiều. Loe hoe mấy mạng người lớn, còn con nít choi choi không. Tụi nó đào đâu ra tiền để coi hát. Coi cọp thì có. Ế quá, thôi cũng làm lơ cho tui nó coi cho có vẻ xôm tụ hát mới có hứng. Không có tụi nó ai làm quân lính. Mầy ngủ gục biết gì.
Bác quay sang ba tôi hỏi tiếp:
- Nhưng xóm này coi thu cũng được đó chớ?
Mẹ tôi thở dài:
- Thì cũng cháo rau qua ngày. Đắp đổi cũng xong.
Bác Tư Tình ăn xong, đẩy cái bát dơ sang một bên, rít một hơi thuốc trầm ngâm:
- Kiếp tằm thì phải nhả tơ chớ biết làm sao. Đôi lúc cũng muốn về Sài Gòn đổi nghề, nhưng…
Mẹ tôi trả lời, giọng buồn so:
- Nghề gì cũng chết đói bác ơi, không nhà, không cửa, tứ cố vô thân. Có xin vô làm mấy gánh lớn thì cũng làm công cho người ta, bị trên chèn dưới ép. Đó là nói cái hồi vợ chồng tui còn trẻ mà đã vậy đó. Chớ bây giờ thì hơi tàn rồi. Bây giờ thì thiên hạ chỉ cần những người trẻ trung, vừa hát vừa nhảy choai choai chớ tụi mình dở người dở ngợm, khó lắm.
Ba tôi cũng tiếp:
- Thiệt tình, tui không thích làm công cho người ta anh Bảy, anh Tư à. Cái máu của tui là máu nóng, máu thích giang hồ, không muốn bị cột chân cột cẳng. Cái khó nếu mình trở về Sài Gòn hoặc tỉnh lớn là ở chỗ đó. Cái xe lam này, mấy rương đồ này, xóm làng, đình, trường này ngó quen thân mà dễ chịu. Mấy cái đó dính liền tui như vợ với con. Thôi thì cứ kiếm ăn như bây giờ mà có tự do. Đó anh Bảy thấy không, anh thích uống rượu là mình uống, thích hát là hát, đau thì nghỉ, không lo không sợ. Còn anh Tư, muốn cương tuồng là cương. Hổng ai phạt anh, hoặc cúp tiền ăn, tiền cháo nào ráo trọi. Đói cùng đói, no cùng no. Phải không anh Tư, phải không anh Bảy.
Bác Tư Tình, bác Bảy Viễn nhìn ba tôi gật đầu cười:
- Vì vậy tụi tui mới đi theo anh chớ.
Mẹ tôi quay lại hỏi ba tôi:
- Xóm trên có đông không anh?
- Xóm trên là xóm nào?
- Xóm mà ngày mai mình dọn qua đó.
- Nghe nói cỡ vài trăm nóc nhà. Cũng được. Chớ có khi mình hát ở mấy xóm chỉ lèo tèo chục nhà đó thì sao.
Bác Tư Tình gục gặc đầu:
- Kể ra cũng lắm nỗi thăng trầm anh Bảy hả !
Bác Bảy cười nhìn tôi, lúc đó đang gà gật tựa đầu vào gối mẹ:
- Cái thời vượng nhứt là thời thằng Hiệp mới sinh ra đó. Ôi, nghĩ lại mà bắt ham. Bà con chòm xóm xúm coi hát không biết mệt. Mình xuống câu vọng cổ hoặc câu xề nào là bà con vỗ tay nườm nượp, liệng bạc giấy lên thưởng tứ tung. Sướng ghê.
- Chẳng bù cho bây chừ. Cái thời gạo châu củi quế, chiến tranh mà, sống đến bây giờ được là vững lắm rồi.
Mẹ tôi vuốt tóc tôi, giọng bà vương một chút gì vừa vui, vừa tiếc, vừa nhớ:
- Tui thì nhớ hoài cái xã Tam Hiệp.
Ba tôi cũng cười, giọng người bỗng dưng sảng khoái lạ thường:
- Hồi má thằng Hiệp đẻ thằng Hiệp đó mà.
Bác Bảy cười nhẹ:
- Chính tui chạy đi kêu mụ chớ ai. Thiệt cái xóm gì đâu mà tốt bụng không bằng.
Xã Tam Hiệp. Đấy là tên một cái xã mà tôi được nghe nhắc lại nhiều lần đến thuộc lòng. Sở dĩ ba má tôi và các bác Bảy, bác Tư ai ai cũng chú ý đến cái xã có cái tên Tam Hiệp là bởi nhiều lý do. Trước hết Hiệp tên tôi, chính là lấy từ cái chữ sau của tên Tam Hiệp. Điều đó chứng tỏ sự liên lạc mật thiết giữa xã Tam Hiệp và đoàn hát của chúng tôi. Số là thuở ba tôi và má tôi mới lấy nhau, hai người lập nên đoàn hát nhỏ này và đi lưu diễn cùng các xã thôn ấp xa xôi. Thời ấy việc đi lại dễ dàng hơn bây giờ nhiều vì an ninh được bảo đảm hoàn toàn. Lại nữa, gặp thời buổi sung túc, ba má tôi cùng hai bác Tư, bác Bảy đủ sống với số tiền thu được sau mỗi buổi hát. Đồng bào thôn ấp hồi đó thích xem hát, xem cải lương vô cùng. Vì vậy đoàn hát của ba má tôi đi đến thôn ấp nào, dân chúng cũng ủng hộ đông đảo. Được mấy năm sung sướng như thế, cả đoàn dành tiền mua được chiếc xe lam cũ để chuyên chở cho nhanh và để giờ giấc di chuyển được tự do hơn. Có chiếc xe lam cũng đỡ lắm chớ. Thứ nhất, nó đỡ được tay chân khỏi mang vác đồ đoàn, thứ hai nó có thể làm chỗ ngủ tạm cho vài người trong đoàn trên đường lưu diễn. Chiếc xe lam được tậu vào lúc má tôi bắt đầu mang thai đứa con đầu tiên, chính là tôi bây giờ. Không có gì khác lạ xảy ra nếu sáu bảy tháng sau đó, bụng của má tôi không to lên như mọi người đàn bà có thai khác. Bởi cái sự bình thường đó đã làm hại đoàn hát. Với cái thai lớn đó, má tôi hết còn giấu giếm gì được, dù là bộ đồ rộng thùng thình của bà hoàng hậu. Chả lẽ má tôi đóng vai cô thôn nữ mà lại có cái bụng to vượt mặt hay sao. Kẹt nhất là cả đoàn chỉ có mỗi má tôi là nữ. Không còn ai có thể thế chỗ má tôi được. Có lần ba tôi hóa trang đóng vai một công chúa, nhưng đám khán giả nhà quê tinh mắt ở dưới đã khám phá được, thế là một tràng la ó diễn ra khiến không ai có thể cất tiếng hát được. Bác Bảy đành ra sân khấu xin lỗi và trả tiền lại cho khán giả.
Thời kỳ đó là thời kỳ xám của đoàn hát. Bao nhiêu tiền dành dụm đều tiêu sạch. Ba tôi lo lắng vô cùng vì không kiếm được tiền để lo cho má tôi sanh nở. Đoàn hát không dám diễn tuồng nữa. Bác Tư và ba tôi bèn đổi ra cách khác, hoặc độc diễn cải lương, nghĩa là ca vọng cổ không thôi như người ta hát tân nhạc vậy. Hoặc là soạn vở kịch ngăn ngắn chỉ có hai người diễn chọc cười. Diễn xong, cầm mũ rảo quanh đám khán giả để mong họ ủng hộ chút tiền.
Cứ thế, chiếc xe lam di chuyển lần lần đến một xã lạ thưa người. Đất đai tương đối trù phú, những con rạch nước xám đục nổi bùn chằng chịt. Đấy là xã Tam Hiệp. Khi đến nơi, nhìn những mái nhà lá thưa thớt, đoàn hát thất vọng. Ở những nơi đông đảo gấp ba gấp bốn ở đây mà đoàn cũng không thu được tiền huống hồ cái xóm bé nhỏ và trầm lặng này. Mà quả thật vậy, buổi hát đầu tiên của chúng tôi chỉ lèo tèo dăm ba khán giả. Không đủ để mua gạo nấu một nồi cháo loãng. Nhưng trong phút túng cùng, không ai dám chê tiền dù chỉ một đồng. Cả đoàn ra công diễn tuồng. Để có vai nữ, ba tôi biến cải nhân vật trong tuồng là người đàn bà mang thai. Song vì vậy mà tai nạn xảy ra. Má tôi ngất xỉu trên sân khấu vì quá mệt nhọc. Trò đời Tái ông mất ngựa quả thật không ngoa. Tình trạng bi đát của ba mẹ tôi cùng đoàn hát đã giúp khám phá được tấm lòng thương yêu đùm bọc đồng bào của những người dân quê Tam Hiệp. Đám khán giả ít oi kia không đòi lại tiền vì vở tuồng không trọn như những khán giả nơi khác, mà họ xúm lại tìm cách cứu tỉnh mẹ tôi. Một người chạy vụt đi. Rồi tiếng mõ lốc cốc. Không đầy nửa giờ sau, hầu như cả làng đều xúm tới. Một ông lang ta và một bà mụ được mời đến. Bà mụ bắt mạch, rờ bụng và đoán chắc mẹ tôi sẽ sanh trong vòng đêm nay.
Một gia đình nông dân gần đó mời cả đoàn hát nghỉ đêm tại nhà họ và chờ giờ mẹ tôi sanh. Đêm đó, tôi mở mắt chào đời không phải trên chiếc xe lam như ba tôi thường nghĩ mà trong một mái nhà ấm áp. Bà mụ đã không lấy một cắc bạc nào. Ông lang ta cắt biếu mẹ tôi hai thang thuốc cùng cho nghệ, gừng. Sáng tinh sương hôm sau, một dân làng ghé ngang qua biếu mẹ tôi nửa chục trứng gà. Cả ngày, hết người này đến, lại người khác đến, người cho cái áo nhỏ, kẻ cho cái quần, kẻ cho tô cháo, trách cá kho tiêu mặn, chai nước mắm, một ít gạo đỏ. Tôi ra đời trong hơi ấm của cả vật chất lẫn tinh thần. Mẹ tôi, ba tôi chỉ biết rơm rớm nước mắt để cám ơn mọi người. Tối hôm đó, người cùng bác Tư, bác Bảy hát tặng bà con cô bác xã Tam Hiệp những bài vọng cổ mùi mẫn, các điệu hát hay khác. Mẹ tôi nhắc lại là chưa bao giờ bà nghe ba tôi cùng bác Tư, bác Bảy hát hay như vậy.
Chúng tôi nấn ná trong làng được hơn một tháng, thì từ giã. Giá như ba tôi và đoàn hát cứ ở lại vài tháng nữa cũng được. Nhưng ba tôi là một người tự trọng. Ông bảo không nên lạm dụng lòng tốt của người ta quá đáng. Nhưng lòng tốt của người dân xã Tam Hiệp quả không phải dễ quên. Đó là hành trang tinh thần mà mọi người trong đoàn hát đã mang theo suốt chục năm trời lưu diễn. Mỗi khi đói khó, kiếm ăn chật vật, chúng tôi lại nhớ về xã Tam Hiệp để ngầm an ủi mình. Cái tên Hiệp dính vào đời tôi là một hãnh diện và biết ơn.
Mẹ tôi đã thổi tắt chiếc đèn dầu từ lúc nào. Tôi không biết câu chuyện giữa ba mẹ tôi và bác Tư, bác Bảy về các xã ấp mà đoàn hát tôi sắp sửa dọn đến ra sao, bởi đầu óc tôi cứ nghĩ mãi về cái xã Tam Hiệp tuyệt vời.
Hình như làng xóm đã ngủ yên cả. Gió thốc bốn phía vào gian đình trống nghe lành lạnh. Những chiếc chiếu mỏng dùng làm buồng hóa trang, thay quần áo được hạ xuống trải la liệt trên nền đất. Ba tôi nói giọng ngái ngủ sau một cơn ngáp dài:
- Thôi đi ngủ chớ, để sáng còn dậy kịp.
Bác Tư, bác Bảy hình như cũng buồn ngủ lắm rồi. Cứ thế bác lăn queo trên chiếu, với tay lấy chiếc rương để gối đầu. Và khi mẹ tôi đỡ tôi lên xe lam, tôi đã nghe tiếng bác ngái rõ to như nhịp cưa gỗ.
Tôi nằm day lưng về phía lòng mẹ. Ánh sáng trăng loáng như sữa tràn vào lòng me, nhuộm trắng cả một phần tóc mẹ. Một chéo lá dừa đung đưa cái bóng đậm trên nền trắng đó. Tôi đưa tay nghịch với cái bóng dừa cùng bóng tay mình, đồng thời lắng nghe những âm thanh vọng lại trong cái khoảnh khắc tịch mịch của một đêm trăng nhà quê. Những âm thanh quen thuộc gồm hàng trăm tiếng kêu của các loại sinh vật từ lòng đất đưa lên, trên ngọn dừa đưa xuống, và cả tít trên bầu trời đêm thăm thẳm với hàng hà sa số ngôi sao sáng rỡ.
Khi tôi thức giấc, thì xe đang di chuyển ra khỏi xã. Ánh nắng ban mai làm cay nồng hai mắt. Trên đầu tôi là hai bàn chân lỏng khỏng của bác Tư Tình đong đưa theo nhịp lúc lắc của chiếc xe. Bác Bảy ngồi cạnh tôi ngủ gà ngủ gật. Mẹ tôi thì đang bận chuyện trò với ba tôi lái xe ở phía trước. Chiếc xe kêu rêu từng tiếng lọc cọc xóc xách trên những mô đất gập ghềnh. Tôi kêu nhỏ:
- Mẹ.
Bác Bảy tỉnh ngủ nhìn tôi cười:
- A, đã ngủ dậy. Chết cha, hết phần ăn sáng rồi.
Tôi nghe hết phần sáng, lòng mất vui. Lệ thường của đoàn hát là vậy. Nồi cháo nấu buổi sáng không khi nào đủ cho mọi người. Nên kẻ nào vắng mặt trong bữa ăn thì chắc sẽ không còn phần. Nhưng tôi thì khác chớ. Tôi có mẹ tôi. Tôi kéo giật tà áo bà gọi nhỏ:
- Mẹ !
Mẹ tôi quay lại cười cười. Bà lấy từ trong cái bị nhỏ ra một trái bắp nấu đã nguội, đưa cho tôi, rồi lại quay sang ba tôi nối tiếp câu chuyện bỏ dở và chắc là quan trọng lắm.
Lúc bụng no, tôi mới bò ra gần chỗ bác Bảy ngồi để ngắm cảnh. Con đường nhỏ men theo dòng rạch được ngăn bờ bởi những đám dừa nước lau lách rậm rì. Bên kia là những cánh đồng lúa xanh màu. Lúa đã qua khỏi thời kỳ mạ non. Màu xanh đậm hơn và mạnh mẽ hơn vương vương trong gió. Trời trong xanh. Xa tít tận chân trời vẫn là màu xanh mát. Nắng sưởi làn da tôi ấm nồng lên. Những mạch máu căng đầy. Tôi say say ngửi thở mùi hương của cây cỏ ướt đang bốc hơi trong nắng ban mai.
- Đoàn người tưng bừng về trong cơn gió, hồn như đám mây trắng lửng lơ, giang hồ không bờ không bến đẹp như kiếp bô hê miên.
Tiếng hát của bác Bảy vang vang từ trên trần xe, tỏa ra bừng bừng hăng hái. Tôi bỗng nhiên hát theo, rập ràng:
- Ánh dương lên, một đoàn thanh niên, giục nhau đi từ khi nắng sớm...
Tiếng hát to, mạnh của chúng tôi làm ngạc nhiên cả đàn bò đang ăn cỏ bên kia đường. Chúng dừng ăn, ngẩng đầu, nghiêng một tai lắng nghe. Một con trong đàn cất tiếng kêu theo, giọng ồm ồm. Tôi cười vang. Mẹ tôi nhìn tôi cười:
- Cha, sáng nay cu cậu khỏi học nên cười hoài. Sướng há.
Tôi đỏ mặt nhìn mẹ:
- Con thích xe cứ đi hoài à.
- Đi hoài có mà cạp đất mà ăn. Chú mầy lãng xẹt hà.
Tôi nguýt bác Tư một cái rõ dài. Bác tưởng tôi không biết gì hết. Nhưng mà tôi đã nói thật lòng tôi mà. Đúng vậy, tự nhiên tôi thấy thích thú trong việc di chuyển qua những chặng đường dài. Từng làng xóm, từng con đường, cái gì cũng mới cũng lạ, cũng gợi trong tôi óc tò mò.
Cứ như thế tháng này sang tháng khác, đoàn hát tí hon của ba má tôi đã len lỏi qua không biết bao nhiêu là thôn xã, ấp. Trong những năm tháng đó, đời thơ ấu của tôi thênh thang những mộng ước, đầy ắp những giấc mơ thật đẹp. Có một buổi sáng hồng, có những buổi chiều êm êm, có những đêm trăng sáng, có những rừng dừa, những vườn cây, những con sông, những con rạch, những ruộng lúa. Có nơi chúng tôi đã đi qua hai ba lần, có nơi chúng tôi trở lại rồi không ghé qua nữa. Nhưng mỗi một nơi dù đã đến trước kia rồi hay chưa bao giờ biết, lòng tôi, óc tôi cũng tìm được cái mới lạ. Tôi khao khát, tôi quen thuộc với sự thay đổi, với những chuyến di chuyển. Và vì vậy, tôi không chịu được khi phải ở lâu một nơi nào. Dù nơi đó nuôi sống chúng tôi đầy đủ. Mà đâu phải chỉ riêng tôi. Ai cũng vậy, ba tôi, mẹ tôi, bác Tư Tình, bác Bảy Viễn, người nào cũng nôn nao, háo hức được đi. Cứ ở mãi một nơi là chôn chân, khó chịu. Riêng mẹ tôi thì hơi đặc biệt một chút. Thỉnh thoảng, tôi nghe mẹ tôi nhắc nhở đến một mái nhà, một mảnh vườn. Điều đó hình như là niềm mơ ước sâu kín nhất của người. Thế nhưng, trước mặt ba tôi, mẹ tôi không bao giờ tỏ ý muốn dừng chân ở một nơi nào. Chỉ khi nào trên con đường di chuyển đi ngang qua một ngôi nhà xinh xắn, bà chép miệng bảo: giá như mình có một ngôi nhà như vậy. Những lúc đó, tôi thấy mắt ba tôi nheo lại, trán người hằn một vết nhăn. Thế thôi. Thật tình tôi cũng không biết gì hơn nếu không có một đêm nọ. Vâng, đêm đó, trời sáng trăng. Chúng tôi nghỉ hát vì không có khách. Ai cũng ngủ sớm. Nửa đêm tôi chợt tỉnh giấc vì không cảm thấy có mẹ bên cạnh. Tôi đưa mắt tìm kiếm. Mẹ tôi không ngủ, người ngồi bất động. Và ba tôi đang nói:
- Anh biết em từ lâu vẫn mong mỏi một cuộc sống gia đình đầm ấm hơn là trên chiếc xe lam, ngủ đình ngủ chợ. Nhưng anh không đủ khả năng để tạo dựng cho chúng ta một ngôi nhà. Anh cố gắng để dành tiền, mình về quê mua nhà để sẵn, chớ nghề này rồi cũng có lúc phải nghỉ. Khi già làm sao sống được.
Mẹ tôi trả lời giọng đầy nước mắt:
- Em đâu có muốn làm khổ anh. Nhưng khi nhìn thằng Hiệp đã lớn, mà không được đến trường học hành đàng hoàng em buồn lắm. Nhất là khi đau ốm, em lo. Chớ em theo anh đi đâu mà không được, sá gì nhà với cửa.
- Anh ráng lo cho nó ăn học với người ta, nhưng ngặt…
Ba tôi thở dài:
- Ngặt là cuộc sống tụi mình trôi nổi quá thì làm sao định cư được.
- Kiếp tằm thì phải nhả tơ. Anh đừng lo cho em.
Ba tôi nắm lấy tay má tôi, người nói thật khẽ. Tôi phải nhỏm dậy mới nghe rõ. Tôi biết ngồi nghe lén là xấu lắm. Nhưng tôi nôn nao sợ ba tôi quyết định bắt ở một chỗ thì… Tôi phải đến lớp học. Tôi phải ngồi hàng giờ trong ngôi nhà, im lặng nghe ông giáo giảng bài với cái roi mây nhịp nhịp trên tay sẵn sàng quật vào mông những đứa lắm chuyện, lười biếng. Tôi đâu còn được thả rểu qua những cánh đồng mênh mông như bây giờ. Tôi đâu còn được nghe tiếng hát, tiếng đàn, tiếng la, tiếng cười, bầu không khí rộn rịp của mỗi đêm hát. Ối thôi ! Tôi không chịu được đâu.
- Là chủ gia đình anh phải lo chu tất mọi việc chớ. Để anh liệu.
- Thôi, em biết mỗi lần anh lo liệu ra làm sao rồi... Anh đâu có ở nhà được. Ở đâu năm bảy ngày là ngứa ngáy tay chân, thấy tù túng liền.
Mẹ tôi nói đúng quá. Và ba tôi không nói gì nữa. Người chỉ thở dài. Cả hai cùng im lặng. Lúc đó, tôi ngồi dậy, rón rén lại gần ba mẹ, choàng tay trên lưng hai người nói:
- Con cũng không thích ở một chỗ để đi học đâu. Ba dạy con nghen ba. Con học với ba thôi. Mình học trên xe lam ba nghe.
Ba mẹ tôi giật mình quay lại, mẹ tôi ngẩn người một giây rồi ôm lấy tôi, mắng yêu:
- Thằng này rồi cũng giống ba nó như khuôn. Cái máu giang hồ không hết được.
Ba tôi cười xòa, đưa tay vuốt tóc tôi. Từ đó, tôi không còn nghe má tôi nói chuyện với ba tôi về vấn đề định cư một lần nào nữa. Cuộc sống của chúng tôi cứ thế tiếp tục. Khi thì vui, khi thì buồn, khi gặp lo, khi sung sướng. Nhưng đâu phải dòng đời khi nào cũng xuôi chèo mát mái như lòng mọi người đều mong ước. Chiến tranh càng ngày càng lan rộng. Nhiều thôn xóm nhỏ bé, heo hút đã trở nên vắng vẻ hoàn toàn. Từ nơi này sang nơi khác, chúng tôi đôi khi gặp phải những quang cảnh hoang tàn đổ nát. Chiến tranh đã viếng nơi này trước khi chúng tôi đặt chân đến. Những người dân sống sót lặng lẽ âm thầm. Đâu còn ai đủ sức để nghe chúng tôi ca hát. Hơn thế nữa, đến đêm không còn ai dám ra khỏi nhà. Chúng tôi đành kéo màn vào lúc xế chiều. Lũ trẻ nhỏ cũng biến đâu mất. Tôi không còn được nhìn thấy những gương mặt say mê, những đôi mắt khâm phục kéo hở bức màn chiếu che buồng hóa trang. Cũng vì vậy, cuộc sống vật chất của đoàn hát chúng tôi vô cùng thiếu thốn. Chúng tôi chịu đựng bao cực khổ. Nhiều ngày chúng tôi nhịn cả cháo lót lòng buổi sáng. Đôi khi nhịn cả cơm tối để lấy tiền mua xăng chạy xe. Những lít xăng bán lén lút của những người chợ đen len lỏi được cả những vùng không an ninh lắm. Vào thời gian này, chúng tôi không thể nào quên được những giây phút hồi hộp, bấp bênh và có lần xem ra nhục nhã nữa. Vì không kiếm đủ tiền để mua lương thực nên ba tôi và hai bác Tư, bác Bảy thường tổ chức những buổi câu cá, tát đìa ở những nơi vắng, hoặc ruộng bỏ. Tuy nhiên, đâu phải nơi nào chúng tôi cũng kiếm được thực phẩm tươi một cách dễ dàng. Đôi lần ba tôi đã lợi dụng buổi trưa vắng người, thắt những dây thòng lọng thả nằm trên mặt đất. Một nhúm gạo, hoặc ngô ở giữa. Khoảng một giờ, đôi khi nửa tiếng sau, chúng tôi đã đánh được mấy con gà hoặc mấy con vịt đi lạc.
Công việc giật chân gà, chân vịt là một điều thích thú đối với cái tuổi ham chơi của tôi. Do đó, không bao lâu tôi cũng tinh khôn và giăng bẫy tài tình. Tôi biết thắt một cái nút thế nào để dễ giật. Tôi rành những nơi, những bụi nào kín đáo và dễ ngụy trang cho sợi dây lộ liễu làm các con vật ngon lành kia sợ hãi. Vì những cách sinh sống như thế tôi trở nên một đứa trẻ nhanh nhẹn, tinh ranh, đáo để hơn những đứa cùng tuổi. Những công việc trên lại hấp dẫn tính ham hoạt động của tôi. Tôi xem tất cả những gì tôi làm đều thông thường, không có gì đáng trách, đáng suy nghĩ. Tôi còn nhớ rõ, những lần dừng chân ở các vùng tương đối trù phú, ba tôi thường tổ chức những buổi "đi chợ đêm", đó là cái tên ba tôi đặt ra mỗi lần kêu tôi hoặc bác Tư, bác Bảy đi theo.
Chúng tôi bắt đầu những buổi đi chợ đêm khi trời đã khuya, mọi nơi im vắng hoàn toàn. Làng xóm đã ngủ hết. Thường chúng tôi đi từng đợt hai người. Một người đào xới và một người mang giỏ. Chúng tôi vượt qua hàng rào của một khu vườn mà ba tôi đã để ý đến vào lúc ban ngày. Phần lớn đều là những vườn trồng khoai lang, củ đậu, hay bắp cải. Sau khi vượt hàng rào, chúng tôi bò sát đất. Ba tôi bò trước, tôi bò sau. Trườn mình giữa đám cây lá xum xuê. Ba tôi lắng im một phút để nghe ngóng, rồi mới bắt đầu đào xới. Với những bắp cải, ba tôi không lấy nguyên mà chỉ tỉa mỗi bắp một ít. Cải ta cũng vậy. Su trái thì chỉ hái những trái vừa chín và hái đủ ăn một hai ngày thôi. Riêng kỹ thuật đào khoai hoặc củ đậu của ba tôi làm tôi phục nhất. Một nhát dao thọc sâu vào lườn đất cát, lúc rút ra, ba tôi đã lấy nguyên một cụm khoai mà những dây khoai phía trên vẫn xanh nguyên. Tôi theo dõi hành động của ba tôi, muốn bắt chước, nhưng bao giờ ba tôi cũng không cho phép tôi xía vào. Vì vậy, trong lúc đó tôi chỉ làm mỗi một chuyện là báo động cho ba tôi biết bao tải đã đầy và quay lưng bò nhanh ra khỏi vườn.
Thật tình, ba tôi không được vui lắm sau mỗi lần đi chợ đêm. Người chỉ cười được một chút khi thấy tôi sì sụp ngốn ngấu những món ăn ngon lành, hay những lít xăng mua từ số tiền kiếm được do việc bán bớt những đồ lấy được. Tôi không thắc mắc nhiều. Mặc dù biết rằng, những đồ ba tôi lấy không phải của gia đình tôi. Và nhất là những chuyện đi chợ đêm của bác Tư Tình hay bác Bảy Viễn thường bị ba tôi trách móc là đã lạm dụng quá nhiều. Như vậy đi chợ đêm chưa chắc là điều tốt. Nhưng tốt hay xấu tôi đâu cần biết tới. Chỉ biết sau những buổi đi chợ đêm, cả đoàn hát được ăn ngon hai ba ngày liên tiếp. Và tôi thích đi chợ đêm hoài để mãi mãi được ăn ngon.
Về Đầu Trang Go down
 
Khúc Nam Ai
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Khúc Nam Ai tiếp theo
» Khúc Nam Ai tiếp theo
» Khúc Nam Ai tiếp theo
» Khúc Nam Ai tiếp theo

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
 :: Truyện Tranh - Truyện Cổ Tích - Tình Cảm...-
Chuyển đến